Type to search

7 tác phẩm nghệ thuật ngoạn mục và rất quan trọng để xem tại bảo tàng Louvre

Chia sẻ

Những tác phẩm này có thể không nổi tiếng bằng bức chân dung Mona Lisa của Leonardo, nhưng lại rất đáng để ghé thăm sau khi bảo tàng Louvre mở cửa trở lại sau đại dịch

Law Code of Hammurabi, King of Babylon (Bộ luật của Hammurabi, Vua của Babylon). Khoảng 1792–1750 trước Công nguyên

Trong tấm bia đá bazan cao hơn này, bản ghi chép sớm nhất và kỹ lưỡng nhất về luật pháp được khắc ghi trên bia đá theo nghĩa đen. Vua Hammurabi của Babylon, người cai trị vùng Lưỡng Hà, đã đặt ra 282 luật này (được viết bằng ngôn ngữ Akkadian và chữ viết hình nêm) vào thế kỷ 18 trước Công nguyên. Các mệnh lệnh chi phối tất cả các cách ứng xử (và hậu quả), từ các vấn đề gia đình, các vấn đề kinh doanh, cho đến các luật điều chỉnh dân quân.

Bộ luật của Hammurabi, Vua của Babylon (khoảng 1792–1750 trước Công nguyên). Ảnh của bảo tàng Louvre.

Tấm bia cung cấp một mô hình về quyền tài phán của người cai trị có chủ quyền, đồng thời cũng liệt kê các lãnh thổ và thị trấn trong vương quốc của vị vua, đóng vai trò như một loại bản đồ viết cho miền của ông. Bản thân chữ viết là một di vật văn học đã hình thành cơ sở học tập cho những người ghi chép, những người đã nghiên cứu nó hàng trăm năm sau khi nó được tạo ra.

Tìm tác phẩm này ở đâu: Tầng trệt, khu Richelieu, phòng 227

Aphrodite, được gọi là Venus de Milo. Khoảng năm 100 trước công nguyên

Tác phẩm điêu khắc trang nhã này được phát hiện vào năm 1820 trên đảo Melos và được tặng cho vua Louis XVIII, người đã tặng nó cho bảo tàng Louvre, nơi nó đã được đón nhận rất nồng nhiệt. Nữ thần tình yêu được miêu tả theo phong cách Hy Lạp hóa, được đánh dấu bằng bố cục hình xoắn ốc: phần thân uốn cong nhẹ tạo ra đường cong chữ S hình sin và những đường nét mịn màng của làn da liền kề với phần xếp nếp ở hông.

Venus de Milo (khoảng 100 năm trước Công nguyên). Nguồn ảnh Wikimedia Commons.

Cánh tay bị mất của bức tượng là chủ đề gây tò mò cho nhiều học giả, một số người nói rằng cô ấy có thể đã từng cầm một đồ vật – có lẽ là một quả táo hoặc gương – ám chỉ vẻ đẹp phù du. Khuôn mặt thanh thoát và thân hình gợi cảm của người phụ nữ này từ lâu đã được coi là tiêu chuẩn của vẻ đẹp.

Tìm tác phẩm này ở đâu: Tầng trệt, khu Sully, phòng 346

Fra Angelico, The Coronation of the Virgin. Fra Angelico, Lễ đăng quang của Trinh nữ. Khoảng năm 1430–32

Lễ đăng quang là một chủ đề phổ biến vào thế kỷ 13 và tác phẩm Fra Angelico được cho là đã được gia đình Gaddi ủy thác tạo ra cho một tu viện gần Florence. (Bức tranh thứ hai về sự kiện này của nghệ sĩ tạo ra bức này hiện đang được treo tại Bảo tàng Uffizi ở Florence.)

Fra Angelico, Sự đăng quang của Đức Trinh Nữ (khoảng 1430-32). Nguồn ảnh: Bảo tàng Louvre

Được sắp xếp theo hình chóp, bố cục được tổ chức xung quanh một phối cảnh tuyến tính. Phần mở đầu ở cuối tác phẩm cho thấy các cảnh riêng lẻ trước sự kiện chính.

Tìm tác phẩm này ở đâu: Tầng 1, khu Denon, phòng 708

Albrecht Dürer, Chân dung nghệ sĩ cầm cây kế. 1493

Ở tuổi 22 chín muồi, Albrecht Dürer đã hoàn thành khóa học việc của mình tại thị trấn quê hương Nuremberg, và bắt đầu một chuyến du lịch đến Đức, trên đường đi vẽ hình ảnh của chính mình lên bức tranh được cho là một trong những những ví dụ đầu tiên về chân dung tự họa của phương Tây trong đó nhân vật được vẽ là chủ đề duy nhất.

Albrecht Dürer, Chân dung nghệ sĩ cầm cây kế (1493). Nguồn ảnh: Wikimedia commons.

Trong bức tranh, Dürer thể hiện mình là một người đàn ông sành điệu, xuất hiện với người xem trong chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ vui nhộn phù hợp với đường viền và đường may của chiếc áo của anh. Đây không phải là lần đầu tiên Dürer miêu tả chính mình, và trong cách tạo hình trưởng thành hơn này, cổ của anh chắc khỏe, ngực nở rộng và đôi tay là của một người đàn ông trưởng thành. Các học giả đã cho rằng cây kế trong tay ám chỉ cuộc hôn nhân sắp xảy ra của anh ta với nàng Agnes Frey (tên của vây kế trong tiếng Đức là mannstreu, cũng có nghĩa là “sự chung thủy của người chồng”), hoặc nó có thể là ẩn ý cho vương miện có gai của Chúa Giê-su.

Tìm tác phẩm này ở đâu: Tầng 2, khu Richelieu, phòng 809

Scribe ngồi. 2600–2350 trước Công nguyên

Người đàn ông vô danh này là một trong những hình tượng lâu đời nhất của nghệ thuật Ai Cập, qua hình ảnh ẩn danh cũng như dáng tạc tượng đầy ấn tượng của nhân vật. Chỉ được biết đến bởi dáng điệu, người ghi chép đang ngồi là một người đàn ông không xác định được tuổi tác. Trùm một tấm khăn màu trắng từ thắt lưng trở xuống, người ghi chép có một cuộn giấy da trên đùi. Mặc dù dựa trên các tác phẩm tương tự, bức tượng này có thể ban đầu được đặt trên đỉnh một đế lớn. Nhưng điều đó cũng biến mất, chỉ còn lại phiến đá hình bán nguyệt mà anh nghỉ trên đó.

Scribe ngồi (khoảng 2600–2350 trước Công nguyên). Ảnh của bảo tàng Louvre.

Kiểu tóc cắt sát và đôi tai đối xứng của người đàn ông tạo nên một đôi mắt xuyên thấu, được chấm phá bởi lông mày đen được vẽ . Đôi mắt dát được làm từ magnesit trắng giữ một mảnh pha lê đánh bóng cho mống mắt, với hai kẹp đồng được hàn vào mặt sau để giữ chúng cố định. Gò má mạnh mẽ và xương hàm góc cạnh cho thấy trạng thái tinh thần của người đàn ông, mặc dù cái cằm hơi chùng xuống nhưng tất cả mang lại cho bức tượng một khí chất thư thái.

Tìm tác phẩm này ở đâu: Tầng 1, khu Sully, phòng 635, vitrine 10

Jean-Antoine Watteau, Hành hương đến Đảo Cythera. 1717

Khi Watteau gửi bức tranh phong cảnh này để gia nhập Học viện Hội họa và Điêu khắc Hoàng gia, nó ngay lập tức thúc đẩy việc phát minh ra một thuật ngữ hoàn toàn mới, fête galantes, để mô tả khung cảnh sống động của một cung đình. Cythera là hòn đảo nơi nữ thần Venus sinh ra, và một tác phẩm điêu khắc của nàng được đặt ở một bên, như thể đang ban phước lành cho các cặp đôi đa tình đang thơ thẩn trong chiếc áo choàng dài và đồ trang sức màu phấn. Những người yêu nhau đắm chìm trong sự hiện diện của người mình yêu, trong khi các thiên thần bay lượn trên đường chân trời vàng.

Jean-Antoine Watteau, Hành hương đến Đảo Cythera (1717). Nguồn ảnh: Wikimedia Commons.

Tiêu đề bức tranh chỉ ra rằng cả nhóm sắp bắt đầu một chuyến đi đến hòn đảo, nhưng như nhiều người đã lưu ý, các cặp đôi đã ở trên đảo và dường như sắp khởi hành. Sự mơ hồ này không bao giờ được chính Watteau làm rõ. Tuy nhiên, bức tranh vẫn là một tác phẩm nguyên mẫu của thời kỳ Rococo, được đặc trưng bởi màu hồng, nhẹ nhàng, phong cảnh giàu trí tưởng tượng và tổng thể ngọt ngào.

Tìm tác phẩm này ở đâu: Tầng hai, khu Sully, phòng 917

Théodore Géricault, Cái bè của Medusa. 1819

Năm 1816, một con tàu Hải quân Hoàng gia Pháp có tên là Medusa lên đường đến thuộc địa Senegal, do một sĩ quan chỉ huy kém năng lực cầm lái. Trong khoảng thời gian ngắn, con tàu va vào một bãi cát và bị hư hỏng không thể sửa chữa. Với quá ít thuyền cứu sinh, 150 người còn lại để tự chống đỡ, đã tập hợp lại trên một chiếc bè và tuyệt vọng trôi dạt trên đại dương. Chỉ có 10 người sống sót sau hơn hai tuần lênh đênh trên biển.

Théodore Géricault, The Raft of the Medusa (1819). Nguồn ảnh: bảo tàng Louvre.

Đây là chủ đề mà Géricault đã chọn, sau khi nghe câu chuyện từ hai người sống sót sau khi đắm tàu, và bức tranh đã trở thành biểu tượng của Chủ nghĩa lãng mạn. Khung cảnh đầy kịch tính trong biển động, những thi thể tan nát, những đám mây dày đặc, và một bóng người bi thảm đang tuyệt vọng phất một lá cờ tạm bợ về phía chân trời với hy vọng được giải cứu.

Tìm bức tranh này ở đâu: Tầng 1, khu Denon, phòng 700

Pocket
Tags::

You Might also Like